Hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo

23/07/2022 09:46

Ngày nay, với chủ trương hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, người nước ngoài đến Việt Nam làm ăn, sinh sống, học tập, công tác ngày càng nhiều, trong số đó có bộ phận không nhỏ là người theo tôn giáo.

Có những tôn giáo người nước ngoài tin theo đã được Nhà nước Việt Nam công nhận hoặc thừa nhận như Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo, một số hệ phái Tin Lành,… nhưng cũng có những tôn giáo chưa được Nhà nước Việt Nam công nhận về tổ chức.

Cùng với xu hướng hội nhập này, nhiều tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ thuộc các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam cũng có các mối quan hệ ở các mức độ khác nhau với các tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài.

Từ thực tế này đặt ra một yêu cầu cần phải có những quy định của pháp luật phù hợp với đời sống thực tiễn của hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài. Vậy thế nào là hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài; các hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài hiện nay được quy định trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi chung là Luật) ra sao; so với các quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh (sau đây gọi chung là Pháp lệnh) có gì mới không?…

Thế nào là hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài?

Trước hết, xoay quanh cách hiểu về hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài. Thời gian qua cách hiểu về hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài đã được nhiều nhà quản lý, nguyên làm công tác quản lý, nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, đặc biệt trong quá trình xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo.

Có ý kiến cho rằng chỉ cần hiểu thế nào là yếu tố nước ngoài từ đó sẽ suy ra được thế nào là hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng nên hiểu trọn vẹn cả cụm từ hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài thay vì chỉ giải thích yếu tố nước ngoài như trên.

Theo quy định của Luật, hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài mặc dù chưa được giải thích, nhưng qua các quy định liên quan đến gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài, sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam,… có thể hiểu hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài là hoạt động tôn giáo có ít nhất một bên tham gia là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài hoặc việc xác lập, thay đổi, chấm dứt hoạt động xảy ra tại nước ngoài.

Theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo thì hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài là một trong những nội dung được quan tâm xây dựng và có nhiều điểm mới, được các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đánh giá là điểm sáng, tiến bộ của Luật so với các quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Trên cơ sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh, Luật đã có nhiều đổi mới, bổ sung, cụ thể các quy định như sau:

1. Sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam:

Pháp lệnh quy định về quyền sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, đó là được tạo điều kiện sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tôn giáo Việt Nam. Nếu họ có nhu cầu tập trung để sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo hợp pháp ở Việt Nam thì có trách nhiệm gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Trong thời hạn 25 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do. Bên cạnh quyền này, Pháp lệnh cũng quy định nghĩa vụ của người nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật có liên quan.

Trong thực tế khi thực hiện quyền này, nhiều cơ sở tôn giáo của Việt Nam không đủ rộng; chức sắc, nhà tu hành không biết nhiều ngôn ngữ để giúp cho người nước ngoài thực hiện các lễ nghi tôn giáo; nhiều tôn giáo người nước ngoài theo nhưng hiện ở Việt Nam chưa có hoặc chưa được công nhận;có sự khác biệt về nghi lễ, giáo lý, đức tin giữa tôn giáo họ theo với tôn giáo ở Việt Nam nên mong muốn Nhà nước Việt Nam cho phép mượn hoặc thuê địa điểm không phải là cơ sở tôn giáo để sinh hoạt tôn giáo riêng… điều này đã hạn chế quyền sinh hoạt tôn giáo tập trung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài.

Cũng nội dung này, hiện Điều 47 của Luật quy định: Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác gửi hồ sơ đề nghị đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm dự kiến sinh hoạt tôn giáo tập trung. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.

Như vậy, có thể thấy quy định của Luật so với Pháp lệnh đã mở rộng thêm quyền cho người nước ngoài có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tập trung, đó là bên cạnh việc họ có thể tập trung sinh hoạt tôn giáo tại các cơ sở tôn giáo của Việt Nam thì còn có thể sinh hoạt tại địa điểm hợp pháp khác. Và tại Điều 2 của Luật cũng đã quy định thế nào là địa điểm hợp pháp? Tại khoản 15 Điều 2 của Luật quy định địa điểm hợp pháp là đất, nhà ở, công trình mà tổ chức hoặc cá nhân có quyền sử dụng hợp pháp theo quy định của pháp luật. Quy định này đã khắc phục bất cập của Pháp lệnh.

2. Hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam:

Trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh, Luật đã quy định chủ thể được mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo là tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (Pháp lệnh quy định chủ thể là tín đồ, nhà tu hành, chức sắc).

Luật cũng đã bổ sung hoạt động mà tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện, đó là "hoạt động tôn giáo". Và để tránh các cá nhân mạo danh chức sắc tôn giáo nước ngoài, Luật quy định thành phần hồ sơ bổ sung "Văn bản chứng minh chức danh hoạt động tôn giáo của người được mời".

Về thẩm quyền chấp thuận được giao cho Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh nếu mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo ở một tỉnh; cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương nếu mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện hoạt động tôn giáo ở nhiều tỉnh hoặc hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo.

3. Việc tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo cho tổ chức của mình:

Pháp lệnh chưa có quy định cho tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo được mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo cho tổ chức mình. Việc không quy định này đã không tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức khi có nhu cầu được giao lưu, học hỏi từ bên ngoài.

Khắc phục tình trạng này, Luật đã quy định tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo được mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo. Tuy nhiên, khi thực hiện quyền này, tổ chức phải tuân thủ các quy định tại khoản 2, 3 Điều 48 của Luật và chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo phải tuân thủ quy định tại khoản 6 Điều 48 của Luật. Đây là quy định mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo.

(Còn tiếp)


Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có

Nhập thông tin của bạn